null Phương pháp tìm kiếm tài liệu tham khảo khoa học

Mở đầu

Trong nghiên cứu khoa học, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của công tác nghiên cứu tài liệu. Tuy nhiên, vì nhiều lí do, lâu nay ở Việt Nam mảng này dường như chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức.

Trong rất nhiều lí do có thể liệt kê, vấn đề hàng đầu là kinh phí. Các thư viện nghèo nàn hoặc chậm có sách mới, các tủ sách chuyên ngành hạn chế về số lượng, chi phí mua tài liệu trực tiếp quá cao, không có phương tiện thanh toán, v.v.

Nguyên nhân quan trọng thứ hai, đó là yêu cầu khoa học đối với việc nghiên cứu tài liệu bị thả lỏng. Có thể thấy trong không ít tài liệu khoa học, phần tài liệu tham khảo chiếm một vị trí hết sức khiêm tốn, thông tin trích dẫn, tham khảo được trình bày không đúng chuẩn mực, vẫn thường được dễ dàng cho qua.

Và thời gian gần đây, với sự phát triển kinh tế nhanh chóng và sự bùng nổ của Internet, đang dần hình thành một xu hướng có phần thái quá: sử dụng gần như mọi thứ tìm thấy trên Internet để đưa vào tài liệu khoa học mà không cần kiểm chứng nguồn gốc, độ tin cậy, đánh giá giá trị, cũng như không tuân thủ đúng các quy tắc trình bày và sử dụng đối với các tài liệu này.

Vậy, làm sao để giải quyết các vấn đề đó?

Vấn đề kinh phí: đang dần có sự quan tâm trở lại từ góc độ quản lí; Internet trở thành một nguồn cung cấp quan trọng, gần như không thể thiếu, các tài liệu cơ bản cần thiết.

Yêu cầu khoa học: trong xu thế hội nhập, vấn đề này cũng đang được điều chỉnh, vì chúng ta càng chậm đặt yêu cầu cao thì càng chậm phát triển kịp cùng với thế giới.

Sử dụng Internet: đây là một công cụ thuận tiện để tiếp cận nhanh và dễ dàng đến một lượng thông tin khổng lồ và phong phú trên khắp thế giới, trong mọi lĩnh vực. Nhưng, trong một thế giới hỗn độn thông tin như thế, làm sao để tìm được thông tin phù hợp với nhu cầu một cách nhanh chóng, hiệu quả? Đó không phải là điều dễ dàng! Và những nội dung tiếp theo đây sẽ được trình bày với mong muốn góp phần vẽ ra một con đường như thế.

Xác định chủ đề nghiên cứu

Thông thường, để tiến hành nghiên cứu, cần có giai đoạn chuẩn bị ban đầu là xác định chủ đề nghiên cứu. Giai đoạn chuẩn bị này có thể trải qua các bước sau: xác định nhu cầu; lựa chọn chủ đề; giới hạn phạm vi của chủ đề; và sau cùng là định rõ các mục tiêu nghiên cứu.

Tất nhiên, vẫn có thể thấy nhiều trường hợp bỏ qua giai đoạn chuẩn bị này mà tập trung hẳn vào các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành cụ thể. Hoặc sinh viên thường làm nghiên cứu theo sự chỉ định của người thầy hướng dẫn. Song, khi muốn hiểu rõ vấn đề cần nghiên cứu, thấy rõ con đường cần đi qua và nơi cần đến, thì tốt hơn hết là tự chuẩn bị cho mình thật tốt ngay từ đầu. Người thầy hướng dẫn thông thường cũng sẽ có hứng thú hơn khi làm việc với một học trò biết mình muốn gì và cần làm gì trong quá trình nghiên cứu.

Xác định nhu cầu

Có nhiều vấn đề cần quan tâm khi xác định nhu cầu nghiên cứu và tìm kiếm tài liệu phục vụ cho nghiên cứu đó.

Điều đầu tiên cần quan tâm là cấp độ của đề tài. Mỗi cấp độ sẽ có những yêu cầu tương ứng về mặt khoa học và mức độ chuyên sâu của đề tài, cũng thể hiện qua phạm vi và mức độ chuyên sâu của tài liệu tham khảo. Những nghiên cứu ở bậc đại học, nếu tham khảo được nhiều tài liệu chuyên sâu thì càng tốt, nhưng đó cũng không hẳn là một đòi hỏi quá gắt gao. Nhưng ngược lại, một đề tài ở bậc cao học, tiến sĩ mà không có, hoặc có rất ít tài liệu tham khảo từ các sách và tạp chí chuyên ngành có uy tín, các học giả tên tuổi trong lĩnh vực, thì giá trị sẽ giảm đi rất nhiều.

Vấn đề tiếp theo là thời hạn nghiên cứu. Một đề tài nghiên cứu của sinh viên đại học có thể bố trí thực hiện trong vài ba tháng, ở bậc cao học thường phải từ hơn nửa năm đến một năm, hoặc thậm chí lâu hơn. Tuỳ theo thời hạn nghiên cứu được áp đặt, nhà nghiên cứu phải lập kế hoạch nghiên cứu chi tiết, phân bố các giai đoạn nghiên cứu và công việc phải làm một cách hợp lí để có thể đạt đến đích mong muốn kịp thời hạn.

Yếu tố quan trọng tiếp theo là mục đích nghiên cứu. Mục đích này sẽ thay đổi tuỳ theo tính chất của mỗi đề tài. Và khi mục đích khác nhau, các giai đoạn nghiên cứu và các yêu cầu đặt ra cũng thay đổi tương ứng. Ở đây, chúng ta đề cập đến hai dạng thường gặp là:

Nghiên cứu một vấn đề khoa học

Nghiên cứu về một vấn đề khoa học giúp đào sâu, mở rộng hiểu biết về chủ đề đó, làm sáng tỏ các kết quả mới thu được và công bố một cách chặt chẽ, rõ ràng.

Mục đích của nghiên cứu dạng này là quan sát, giải thích, diễn giải, khám phá những mối liên hệ mới giữa các hiện tượng, sự việc, sự vật, và sau khi kiểm chứng sẽ xây dựng một giả thuyết mới hoặc tái cấu trúc lại các giả thuyết đã có về một hiện thực nhằm phổ quát hoá vấn đề đã nghiên cứu.

Kết quả của các nghiên cứu thường được phát triển thành một luận văn, luận án, với các luận chứng, luận cứ bảo vệ kết quả thu được. Do đó, dạng nghiên cứu này đòi hỏi rất cao ở việc tham khảo tài liệu.

Báo cáo tổng hợp tài liệu

Báo cáo tổng hợp tài liệu là một bài viết tổng hợp, mô tả đầy đủ và trung thực về những thông tin đọc được, tham khảo được về một vấn đề, sự kiện, hiện tượng khoa học. Dạng này thường gặp trong các buổi sinh hoạt chuyên đề, thảo luận chuyên môn ở các đơn vị đào tạo và nghiên cứu.

Báo cáo dạng này cần dựa trên những gì đã được chứng minh trong thực tế, rõ ràng và chính xác. Do đó, những thông tin tổng hợp được cần có trích dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp rõ ràng về nguồn gốc của thông tin được đề cập.

Có hai dạng báo cáo tổng hợp chính: báo cáo tổng hợp thông tin và báo cáo tổng hợp phê bình.

Báo cáo tổng hợp thông tin: thường chỉ dừng lại ở mức độ tóm tắt các ý kiến của những tác giả gốc, các kết quả, luận cứ, luận chứng, kết luận của họ về một chủ đề xác định.

Báo cáo tổng hợp phê bình: thường sau khi tóm tắt thông tin, người báo cáo sẽ sắp xếp nội dung, một cách chặt chẽ và khách quan, nhằm làm nổi bật những khía cạnh khác nhau của một vấn đề, bình luận và đánh giá những giá trị của thông tin thu thập được, hệ thống hoá tri thức đã biết về chủ đề đang quan tâm.

Với nhu cầu nghiên cứu tài liệu phục vụ các đề tài nghiên cứu khoa học, các vấn đề cần quan tâm nhất là:

tầm tham khảo đủ rộng để bao quát phạm vi của chủ đề;

mức độ tham khảo đủ sâu, tương ứng với yêu cầu của cấp độ nghiên cứu;

thông tin tương đối cập nhật để đánh giá vấn đề khách quan, kịp thời, không bị lạc hậu với dòng thông tin chuyên ngành; thông tin có chọn lọc sao cho phù hợp với một đề tài khoa học.

Dù gặp những hạn chế khách quan nhất định, nhưng khi nhà nghiên cứu tuân thủ tốt các quy tắc này, sẽ có những giải pháp giúp đáp ứng được nhu cầu, không nhiều thì ít, nhằm bổ sung những giá trị thiết thực cho đề tài cần nghiên cứu.

Nghiên cứu tài liệu càng có ý nghĩa quan trọng ở giai đoạn đầu của đề tài, vì nhà nghiên cứu có thể dựa vào đó để lựa chọn chủ đề, kiểm tra các nguồn lực sẵn có, xác định mục tiêu nghiên cứu và xây dựng những giả thuyết cho đề tài nghiên cứu của mình.

Lựa chọn chủ đề

Như đã đề cập trong Phần 1. Các bước triển khai một đề tài nghiên cứu khoa học, có nhiều cách để lựa chọn một đề tài nghiên cứu:

người hướng dẫn áp đặt một đề tài mà mình đang quan tâm, ưu tiên trong các nghiên cứu trước mắt: có thể người thầy sẽ có tâm thế sẵn sàng hơn khi hướng dẫn những đề tài như vậy; người hướng dẫn gợi ý một đề tài được cho là phù hợp, có thể là với khả năng và điều kiện thực tế; sinh viên lựa chọn một đề tài trong danh sách các chủ đề nghiên cứu của người hướng dẫn: ở đó có thể có đủ cả những vấn đề bắt buộc phải nghiên cứu, những vấn đề ưu tiên, những vấn đề ưa thích, hay chỉ đơn giản là những gợi ý nghiên cứu; sinh viên lựa chọn một đề tài từ các ý tưởng có sẵn của mình: có thể liên quan đến những lợi ích, điều kiện thuận tiện trước mắt hoặc khả năng, sở thích nghiên cứu của sinh viên; sinh viên và người hướng dẫn thảo luận với nhau, mỗi người đưa ra những ý tưởng, lí do, đánh giá ưu nhược điểm của mỗi vấn đề,… và cuối cùng đi đến một lựa chọn phù hợp nhất cho cả hai: đây là cách khá phổ biến, lời khuyên của người thầy giúp sinh viên định hướng tốt hơn trong quyết định của mình mà không có cảm giác bị áp đặt, điều sẽ ảnh hưởng không ít đến động cơ và hứng thú làm việc về sau;v.v.

Tuỳ cấp độ của đề tài cũng như tuỳ điều kiện thực tế của nhà nghiên cứu mà chủ đề nghiên cứu sẽ được xác định, lựa chọn như thế nào cho phù hợp. Nhưng xét tính chủ động của nhà nghiên cứu trong đề tài của mình, cần quan tâm đến những câu hỏi sau:

Hiểu biết ban đầu của bản thân về chủ đề?

Cần có những hiểu biết cơ bản về chủ đề.

Đặt chủ đề trong khuôn khổ giới hạn của chuyên ngành. Nắm bắt các thông tin tổng quát để biết được vấn đề cần được xử lí ở những khía cạnh nào. Tính phù hợp của chủ đề dự kiến với điều kiện thực tế? Đề tài cần có định hướng đúng nhằm giải quyết các vấn đề chuyên môn. Đề tài cần đáp ứng các yêu cầu của người hướng dẫn, của hội đồng khoa học chuyên ngành. Đề tài nên tránh việc chỉ giải quyết những mặt phụ của vấn đề. Đề tài cần có ý nghĩa thực tế, giúp mở rộng hiểu biết về chủ đề được lựa chọn nghiên cứu. Động cơ, hứng thú và lợi ích cá nhân khi nghiên cứu chủ đề đó?

Động cơ và hứng thú cá nhân ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ nghiên cứu, nếu cân nhắc hài hoà được khi lựa chọn đề tài sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình nghiên cứu.

Điều kiện truy cập các nguồn tài liệu tham khảo?

Với mọi đề tài, cần phải đảm bảo truy cập được những nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho việc thực hiện đề tài, và do đó nên đặt thành một vấn đề nghiêm túc trước khi bắt đầu nghiên cứu.

Các đề tài quá mới hay quá chuyên biệt sẽ có ít tài liệu hoặc nguồn tài liệu khó truy cập.

Nên có hoặc tìm được những tài liệu giúp định hướng tìm kiếm thông tin phù hợp.

Những đề tài ở cấp độ càng cao thì càng cần thiết phải truy cập đến tài liệu nguyên cấp (primary document/document primaire).

Cần tìm và khai thác tối đa những nguồn hỗ trợ truy cập thông tin, tài liệu: thầy cô giáo, các chuyên gia, bạn bè, các thư viện, các đơn vị chuyên ngành, các tổ chức quốc tế, các diễn đàn chuyên môn và các nguồn đáng tin cậy trên mạng, v.v.

Thời gian cho phép thực hiện đề tài?

Thời gian cho mỗi đề tài tuỳ thuộc vào cấp độ của đề tài đó. Ngoài tổng thời gian cho phép của đề tài, các giai đoạn làm việc cũng cần được phân bổ thời gian hợp lí.

Cần cân nhắc các khoảng thời gian: lựa chọn đề tài, tìm kiếm tài liệu, giới hạn phạm vi đề tài, đọc và thu thập thông tin, viết bài và sửa bài.

Tránh chọn những đề tài quá phức tạp, đòi hỏi phải tham khảo rất nhiều tài liệu trong một phạm vi quá rộng. Lựa chọn các vấn đề nghiên cứu cho hợp lí, nên lựa chọn những khía cạnh có thể xử lí ở tầm sâu, thay vì đề cập đến quá nhiều vấn đề một cách nông cạn. Tốt nhất là nên lập ra một lịch trình nghiên cứu với các giai đoạn cụ thể, dĩ nhiên là để định hướng tốt quá trình nghiên cứu chứ không phải để răm rắp tuân theo một cách bất di bất dịch. Có nhiều cách để tìm kiếm và củng cố lựa chọn chủ đề nghiên cứu. Thông thường, các tài liệu mang tính thời sự là nguồn thông tin tốt để định hướng. Tuy nhiên, những dạng tài liệu khác có thể giúp định vị tốt về mặt chuyên môn là:

các bài viết trong các bộ bách khoa toàn thư có uy tín;

các bài tóm tắt những chủ đề đang được quan tâm trên các tạp chí chuyên ngành;

các từ điển giải thích chuyên môn;

các danh mục đề tài của các đơn vị nghiên cứu;

danh sách các đề tài nghiên cứu của người hướng dẫn khoa học;

v.v.

Giới hạn chủ đề

Sau khi lựa chọn được chủ đề xuất phát, cần thực hiện bước tiếp theo là giới hạn phạm vi và xác định cụ thể chủ đề cần nghiên cứu. Ban đầu có thể dựa vào trực giác, nhưng sau đó cần định hình các ý tưởng và biến các ý tưởng đó trở thành hiện thực, khả thi.

Có những bước quan trọng cần trải qua để giới hạn phạm vi của đề tài nghiên cứu.

Nắm bắt mọi biên độ và tính phức tạp của vấn đề: tham khảo các nguồn tài liệu giúp hiểu vấn đề một cách cơ bản, tổng quát (bách khoa thư, sách và sổ tay chuyên ngành, các tạp chí khoa học, v.v.)

Kiểm tra toàn bộ các mặt của vấn đề: đặt ra những câu hỏi liên quan đến các yêu cầu quản lí, chuyên môn cũng như động cơ, hứng thú và lợi ích cá nhân và trả lời các câu hỏi đó.

AI? – Có những ai, thuộc lĩnh vực nào liên quan đến chủ đề.

CÁI GÌ? – Sự vật, sự việc, hiện tượng nào được nghiên cứu; các thành phần của đối tượng được nghiên cứu.

KHI NÀO? - Vấn đề nghiên cứu xảy ra khi nào, bối cảnh thời gian của chủ đề đó, có mức giới hạn thời gian nào hay không.

Ở ĐÂU? – Giới hạn địa lí (quốc gia, vùng miền,…) của vấn đề.

THẾ NÀO? – Góc độ tiếp cận, quan điểm xử lí vấn đề mang tính thực nghiệm hay lí thuyết.

TẠI SAO? – Ý nghĩa và tầm quan trọng của chủ đề được nghiên cứu, những vấn đề liên quan hay nảy sinh từ đó, vì sao cần ưu tiên nghiên cứu.

Phát biểu chủ đề một cách ngắn ngọn: phát biểu chủ đề nghiên cứu càng cô đọng và chính xác càng tốt, bằng một câu hay chỉ vài dòng ngắn.

Sử dụng các từ có ý nghĩa chính xác.

Có thể đặt dưới dạng một câu hỏi.

Tránh lạm dụng các từ ngữ: có độ bất định thông tin cao; màu mè, bóng bẩy; thể hiện chính kiến, quan điểm.

Lựa chọn chủ đề nghiên cứu (Xem ở Phần 1)

Khi chủ đề quá rộng hay quá giới hạn: hoàn toàn có thể thu hẹp hay mở rộng các vấn đề cần nghiên cứu vì những lí do thời gian, tính chất đề tài, nguồn tài liệu hạn chế,…

Giới hạn: thời gian cho phép càng ngắn và cấp độ đề tài càng thấp thì chủ đề nghiên cứu càng có thể giới hạn trong: một địa điểm cụ thể, một giai đoạn nhất định, một khía cạnh riêng biệt, những vấn đề liên quan đặc thù,…

Mở rộng: một đề tài quá giới hạn sẽ gặp nhiều khó khăn khi xử lí và tham khảo tài liệu, do đó sẽ khó lập ra các giả thuyết để nghiên cứu. Lúc đó, nên mở rộng phạm vi nghiên cứu theo hướng ngược lại, cũng xét ở các khía cạnh thời gian, địa điểm, các khía cạnh và vấn đề liên quan,…

Định rõ mục tiêu

Khi đã có một chủ đề xác định, diễn đạt ngắn gọn, nhà nghiên cứu cần đặt thêm những câu hỏi và trả lời nhằm làm rõ các mục tiêu nghiên cứu, và định hướng tốt hơn trong quá trình nghiên cứu về sau, như lựa chọn phương pháp, các nguồn tài liệu, v.v.

Các câu hỏi có thể đặt ra về mục tiêu nghiên cứu là:

Đề nghị một giải pháp cho một vấn đề gặp phải?

Xác nhận hay bác bỏ một giả thuyết?

Gợi ý một ứng dụng công nghệ mới?

Phân tích các kết quả thí nghiệm và quan sát thực địa để so sánh với một lí thuyết đã kiểm chứng?

Giải quyết một vấn đề kĩ thuật?

V.v.

Lựa chọn nguồn tài nguyên và công cụ tìm kiếm

Mở đầu

Khi đã có được một chủ đề xác định, cũng như đã đặt ra các mục tiêu nghiên cứu rõ ràng, bước tiếp theo là lựa chọn những nguồn thông tin phù hợp nhất để tìm kiếm tài liệu tham khảo.

Có hai bước lựa chọn:

lựa chọn loại tài liệu cần tham khảo;

lựa chọn loại công cụ giúp tìm kiếm các tài liệu tham khảo phù hợp.

Tương ứng với các loại tài liệu khác nhau sẽ có những nguồn cung cấp khác nhau. Và sự lựa chọn nguồn tài nguyên và công cụ tìm kiếm tuỳ thuộc vào chủ đề cần tìm kiếm cũng như quan điểm tiếp cận.

Để hiểu rõ đặc điểm các nguồn tài liệu, cần hiểu rõ chu trình xuất bản thông tin khoa học kĩ thuật, được biểu diễn theo sơ đồ dưới đây.

Loại tài liệu

Ý tưởng nghiên cứu

Đặc điểm

Ý tưởng nảy sinh trong đầu một nhà nghiên cứu hay một nhóm nghiên cứu.

Đặt vấn đề nghiên cứu, lập giả thuyết, đánh giá hiện trạng.

Phát triển ý tưởng qua thời gian dài nghiên cứu.

Loại tài liệu

Thông báo cá nhân

Đặc điểm

Trao đổi, thảo luận về những kết quả nghiên cứu và/hoặc kết luận ban đầu giữa các chuyên gia, đồng nghiệp, thông qua nhiều phương tiện khác nhau như:

gặp mặt không chính thức;

viết thư riêng/thư điện tử;

họp nhóm;

viết bài trên các diễn đàn thảo luận chuyên môn trên mạng;

v.v.

Loại tài liệu

Báo cáo hội nghị (không xuất bản)

Đặc điểm

Giới thiệu các kết quả nghiên cứu và kết luận ban đầu trong các hội thảo, hội nghị mà ban tổ chức không tập hợp các bài báo cáo lại để in và công bố chính thức.

Loại tài liệu

Báo cáo nghiên cứu

Đặc điểm

Công bố các tài liệu dưới dạng chờ in, báo cáo kĩ thuật hoặc khoá luận, luận văn, luận án thực hiện ở các đơn vị đào tạo – nghiên cứu (được gọi là “văn liệu xám” – grey literature/littérature grise).

Loại tài liệu

Báo chuyên ngành

Kỉ yếu hội nghị (xuất bản)

Đặc điểm

Công bố các kết quả nghiên cứu và kết luận khoa học được thừa nhận trong giới khoa học chuyên ngành, thông qua:

các hội thảo, hội nghị mà ban tổ chức có lập hội đồng khoa học, in kỉ yếu và công bố chính thức;

các tạp chí chuyên ngành: các tạp chí có uy tín khoa học cao phải có ban biên tập chuyên ngành, hệ thống phản biện chuyên gia, chuyên viên sửa lỗi kĩ thuật và thời hạn đăng bài được tổ chức chặt chẽ.

Loại tài liệu

Cơ sở dữ liệu và chỉ mục khoa học

Đặc điểm

Có nhiều cơ sở dữ liệu, như Current Content, chuyên tập hợp các bài báo đăng trên tạp chí chuyên ngành, dưới dạng tóm tắt hoặc đôi khi toàn văn, phát hành thành các phiên bản CD-ROM, truy cập trực tuyến hoặc chỉ mục in.

Loại tài liệu

Sách chuyên ngành

Đặc điểm

Các kết quả nghiên cứu được thừa nhận sau một thời gian đủ dài (khoảng từ 3 năm trở lên) thường được các chuyên gia tập hợp lại, hệ thống hoá thành tri thức khoa học và viết thành sách hoặc chuyên khảo (monograph/monographie).

Loại tài liệu

Sổ tay chuyên ngành

Bách khoa thư

Đặc điểm

Các sổ tay chuyên ngành là những ấn bản không định kì, có tính chất định hướng tham khảo về những chủ đề chuyên biệt trong từng chuyên ngành.

Các bách khoa thư là những ấn bản tham khảo tổng quát, phản ánh một cách tương đối hoàn chỉnh và có hệ thống các tri thức khoa học đã được thừa nhận. Có các bách khoa thư phổ thông và bách khoa thư chuyên ngành, với độ sâu tri thức chuyên ngành khác nhau.

 

Trong hệ thống các loại tài liệu khoa học cơ bản nói trên, những yếu tố cơ bản nhất quyết định giá trị khoa học của một tài liệu là:

tính chính xác và khách quan khoa học của tài liệu;

quy trình công bố thông tin được tổ chức với sự phản biện khoa học chặt chẽ;

uy tín, kinh nghiệm xuất bản khoa học của đơn vị phát hành tài liệu;

uy tín, kinh nghiệm khoa học của tác giả.

Cho dù tính chất đề tài nghiên cứu là gì, việc cần thiết là phải tìm kiếm tài liệu tham khảo.

Với ý tưởng ban đầu đã có, có thể tham khảo các từ điển giải thích chuyên ngành và các bách khoa thư để có cái nhìn chung cơ bản về vấn đề cần nghiên cứu.

Sau đó, có thể tìm các sách chuyên khảo, thông qua các thư mục thư viện, và các bài báo chuyên ngành được giới thiệu trong các cơ sở dữ liệu tóm tắt, để nắm bắt mọi biên độ của vấn đề cần tìm hiểu.

Trong một số trường hợp, có thể cần tham khảo thêm một số loại tài liệu đặc thù như: các văn bản nhà nước, các tài liệu nghe nhìn, các bản đồ, hình ảnh, v.v., nhằm hoàn chỉnh một sơ đồ tổng quát của chủ đề đang quan tâm, từ đó sẽ xác định giới hạn phạm vi cần tập trung nghiên cứu một cách dễ dàng hơn.

Lựa chọn nguồn tài nguyên và công cụ tìm kiếm

Đặc điểm các nguồn tài nguyên

Có nhiều cách phân loại các nguồn tài nguyên thông tin khoa học và kĩ thuật.

Theo phương tiện phát hành: tài liệu in trên giấy (sách, báo); tài liệu trên băng đĩa từ (băng cassette, video); tài liệu trên đĩa quang (CD-ROM, DVD); tài liệu chỉ phát hành trên Internet; v.v.

Theo phương thức phân phối: ấn bản thương mại (sách, báo, tài liệu bán trên thị trường); ấn bản phi thương mại (khoá luận, luận văn, luận án, báo cáo kĩ thuật,… gọi chung là “văn liệu xám”).

Theo độ sâu chuyên môn: tài liệu khoa học phổ thông; tài liệu khoa học kĩ thuật chuyên ngành.

Theo phương thức soạn thảo:

Tài liệu nguyên cấp (primary document/document primaire): cung cấp thông tin gốc, trực tiếp, nghĩa là người đọc tiếp nhận thông tin đúng ở trạng thái mà tác giả đã viết. Các tài liệu dạng này là: sách, bài báo chuyên ngành, luận án, báo cáo, từ điển, bách khoa thư, băng đĩa khoa học, v.v.

Tài liệu thứ cấp (secondary document/document secondaire): cung cấp các thông tin nhận diện, định vị hoặc phân tích tài liệu nguyên cấp. Các thông tin dạng này thường gặp ở các thư mục thư viện, các cơ sở dữ liệu tóm tắt, các chỉ mục khoa học, v.v.

Tài liệu tam cấp (tertiary document/document tertiaire): mô tả và đánh giá tổng hợp thông tin từ các nguồn thứ cấp và nguyên cấp. Tài liệu dạng này giống tài liệu thứ cấp ở chỗ cung cấp thông tin nhận diện, định vị tài liệu nguyên cấp, nhưng khác ở chỗ có tổng hợp, phân tích và sắp xếp lại thông tin gốc. Tài liệu tam cấp thường gặp là: bài viết niên giám chuyên ngành (annual review/revue de la littérature annuelle); bài tổng hợp tài liệu (literature review/revue de la littérature); v.v.


Hiểu rõ đặc điểm các nguồn tài nguyên này có thể giúp lựa chọn tốt công cụ tìm kiếm phù hợp với loại tài liệu cần tham khảo.

Các thư mục thư viện: giúp tìm kiếm được các tài liệu nguyên cấp được lưu trữ trong thư viện như sách, tạp chí (theo tựa báo), tài liệu nghe nhìn, các văn bản nhà nước, các luận văn, luận án, v.v. Nhiều thư viện lớn hiện nay đã tin học hoá thư mục để có thể tra cứu trực tuyến, với nhiều chức năng tìm kiếm theo tên tác giả, tựa tài liệu, từ khoá, chủ đề, v.v.

Các cơ sở dữ liệu tóm tắt: sắp xếp thông tin theo một cấu trúc, trật tự rõ ràng, giúp tìm kiếm dễ dàng các tài liệu nguyên cấp (phổ biến nhất là các bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành) theo nhiều tiêu chí khác nhau: tác giả, tựa tài liệu, chủ đề, từ khoá, năm xuất bản, v.v. Trước đây thường được phát hành dưới dạng bản in hoặc đĩa CD-ROM, nhưng hiện nay đa số các cơ sở dữ liệu này đều có phiên bản trực tuyến. Thường chỉ tìm thấy bài tóm tắt, nhưng có thể có một số bài toàn văn.

Các danh bạ mạng và bộ máy tìm kiếm trên Internet: cho phép tìm kiếm gần như đủ loại tài liệu được đăng trên hệ thống Mạng toàn cầu (World Wide Web), kể cả các nguồn tài liệu nguyên cấp hay thứ cấp. Tuy nhiên, tính phù hợp và độ tin cậy của thông tin tìm được bằng các công cụ này không phải lúc nào cũng tốt, thường đòi hỏi người tìm kiếm phải biết đánh giá nghiêm túc các kết quả tìm thấy và chọn lọc những tài liệu có giá trị.

Các nguồn tài nguyên truyền thống

Thông thường, địa điểm đầu tiên cần nghĩ đến khi tìm kiếm tài liệu tham khảo khoa học, đó là các thư viện và trung tâm tài liệu.

Thư viện

Có thể hiện nay các thư viện Việt Nam (thư viện quốc gia, thư viện chuyên ngành khoa học, thư viện đại học,…) chưa có đủ một lượng tài liệu mới dồi dào, phong phú, đáp ứng nhu cầu của đông đảo các nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực, nhưng điều đó đang thay đổi từng ngày một. Đồng thời, không thể bỏ qua lượng tài liệu tuy cũ nhưng có tính chất kinh điển, căn bản, đã được chọn lọc và tích luỹ trong thời gian dài. Và vẫn có một xác suất không nhỏ có thể tìm thấy những tài liệu thực sự quan trọng cho một đề tài nghiên cứu.

Các loại tài liệu lưu trữ ở thư viện bao gồm sách, tạp chí, tài liệu nghe nhìn, các văn bản nhà nước, các luận văn, luận án, v.v., được sắp xếp và phân loại một cách khoa học, trật tự.

Để phục vụ tra cứu, các thư viện thường lập các phiếu thư mục mô tả vắn tắt về tài liệu được lưu trữ (phổ biến nhất là sách), theo một hệ thống được quy định riêng. Qua các phiếu thư mục, có thể tìm thấy tên tác giả, tựa tài liệu, thông tin ấn loát (năm xuất bản, phương tiện phát hành, số trang hoặc dung lượng, v.v.) Các phiếu thư mục có thể được sắp xếp theo chủ đề, theo tên tác giả hoặc theo tựa tài liệu, tuỳ theo cách tổ chức của thư viện.

Với sự phát triển của công nghệ thông tin và Internet hiện nay, việc tin học hoá hệ thống thư mục của các thư viện là xu thế tất yếu. Nhiều thư viện lớn hiện nay đã tin học hoá thư mục để có thể tra cứu trực tuyến, với nhiều chức năng tìm kiếm theo tên tác giả, tựa tài liệu, từ khoá, chủ đề, v.v.

Thư viện Quốc gia Việt Nam: http://www.nlv.gov.vn/

Thư viện Quốc hội Hoa Kì: http://catalog.loc.gov/

Thư viện Anh quốc: http://www.bl.uk/

Thư viện Quốc gia Pháp: http://www.bnf.fr/

V.v.

Sử dụng các thư mục thư viện có những ưu điểm và nhược điểm riêng, được tóm tắt trong bảng dưới đây.

Ưu điểm

Tài liệu có sẵn

Các tài liệu lưu trữ trong thư viện thông thường đều sẵn sàng để người đọc mượn tham khảo, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt. Các tài liệu dù cũ hay mới đều được lập phiếu thư mục.

Chất lượng tài liệu được kiểm chứng

Thông thường, bộ phận nhập tài liệu của thư viện đều có sự kiểm tra, lựa chọn để đảm bảo giá trị, tính phù hợp và lợi ích của tài liệu được nhập vào.

Dễ tìm kiếm

Các tài liệu thường được sắp xếp theo chủ đề trên các kệ sách, do đó nếu tìm được một tài liệu phù hợp với nhu cầu thì dễ dàng tìm thấy nhiều tài liệu khác cùng chủ đề, có thể cũng rất hữu ích cho đề tài.

Nhược điểm

Lượng tài liệu có hạn

Thư viện chỉ có thể giúp người đọc tiếp cận với những tài liệu mà thư viện có lưu trữ.

Không thống kê các bài báo (tạp chí chuyên ngành)

Trong thư mục của thư viện thường chỉ liệt kê đến tựa báo, tựa tạp chí chuyên ngành mà không liệt kê đến từng bài báo như trong các cơ sở dữ liệu tóm tắt.

Thông tin chậm cập nhật

Hầu hết các tài liệu liệt kê trong thư mục của thư viện đều đã được xuất bản trước đó một thời gian, hoặc đề cập đến những sự kiện xảy ra từ khá lâu (thường từ 2-3 năm trở lên). Do đó, thông tin mà các tài liệu này cung cấp có thể không có nhiều tính thời sự.

Các trung tâm tài liệu

Bên cạnh hệ thống thư viện được tổ chức quy củ, chặt chẽ, các trung tâm tài liệu (của các đơn vị nghiên cứu, các tổ chức chuyên môn,…) có quy mô nhỏ hơn, nhưng bù lại, các tài liệu lưu trữ có tính đặc thù chuyên môn cao, nhất là các tài liệu tập trung về một số chủ đề chuyên biệt, là thế mạnh hay mối quan tâm ưu tiên của từng đơn vị.

Thông tin về các trung tâm này có thể tìm thấy trong danh bạ các đơn vị chuyên ngành, hoặc đôi khi có thể trên Internet.

Các tủ sách chuyên ngành

Đây là dạng “trung tâm tài liệu thu nhỏ”, thường gặp ở các bộ môn hoặc khoa ở trường đại học, các phòng thí nghiệm, v.v. Các tài liệu cũng có tính đặc thù cao.

Nói chung, trong xu thế phát triển mạnh mẽ của các nguồn tài nguyên trên Mạng, các nguồn tài nguyên truyền thống dễ bị các nhà nghiên cứu quên lãng hoặc bỏ qua khi tìm tài liệu. Tuy nhiên, cần khẳng định lại rằng, nếu biết cách khai thác nghiêm túc các nguồn tài nguyên truyền thống kể trên, nhà nghiên cứu hoàn toàn có thể tìm được những tài liệu tham khảo có giá trị cho đề tài của mình. Vấn đề then chốt là xác định được loại tài liệu nào cần, có ở đâu, để tiếp cận được một cách hiệu quả.

Các cơ sở dữ liệu

Các cơ sở dữ liệu thông tin khoa học kĩ thuật thường được các công ti, tổ chức lớn xây dựng, bằng cách tập hợp thông tin tóm tắt từ rất nhiều các tạp chí chuyên ngành khác nhau, sắp xếp và tổ chức sao cho việc tìm kiếm thông tin (chủ yếu là các bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành) được dễ dàng hơn.

Thông tin về các tài liệu thường được cung cấp ở dạng tóm tắt, với tên tác giả, tựa bài, tựa tạp chí, thông tin ấn loát (năm, tập, số, trang), có hoặc không có bài giới thiệu tóm tắt nội dung (abstract/résumé) chính.

Mỗi cơ sở dữ liệu có cách tra cứu khác nhau, nhưng thông thường đều cung cấp nhiều khả năng kết hợp các công thức tìm kiếm khác nhau, từ đơn giản đến nâng cao. Phần lớn đều cho phép mở tài khoản tra cứu miễn phí nhằm lưu trữ các kết quả đã tìm kiếm, lịch sử các phiên làm việc, gửi kết quả hoặc thông báo, theo dõi tin tức qua thư điện tử, v.v.

Có nhiều kiểu cơ sở dữ liệu: tra cứu tóm tắt hoàn toàn miễn phí, không có toàn văn; tra cứu tóm tắt miễn phí, truy cập toàn văn thu phí; cả tra cứu và truy cập đều thu phí; tra cứu tóm tắt miễn phí và truy cập một số tài liệu miễn phí; v.v.

Ưu điểm và nhược điểm của các cơ sở dữ liệu được tóm tắt trong bảng dưới đây:

Ưu điểm

Bổ khuyết cho các thư mục thư viện

Giúp tìm kiếm các tài liệu mà thư mục thư viện không thống kê, chủ yếu là các bài báo chuyên ngành.

Thông tin cập nhật

Giúp tìm được những thông tin mới mẻ, cập nhật, có tính thời sự.

Thống kê chi tiết các bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành

Đây là công cụ chính nên dùng để tìm các bài báo chuyên ngành.

Cung cấp các thông tin tham khảo chính xác

Nhờ các tính năng kết hợp các công thức tìm kiếm khác nhau, thông tin tìm thấy qua các cơ sở dữ liệu sẽ có tính chính xác cao độ.

Nhược điểm

Khả năng tiếp cận tài liệu hạn chế

Do thông tin được tập hợp theo chuyên ngành, từ rất nhiều nguồn khác nhau, do đó không phải lúc nào cũng có thể tiếp cận được toàn văn tài liệu. Rất thông thường, nhất là trên các cơ sở dữ liệu trực tuyến, muốn có toàn văn phải trả phí dịch vụ cho nhà cung cấp.

Cách sử dụng phức tạp

Nói chung, do có tính chuyên sâu nên các cơ sở dữ liệu thường đòi hỏi người sử dụng có những kĩ năng đôi khi khá phức tạp, cần mất nhiều thời gian để làm quen và làm chủ được thao tác.

Giới thiệu một số cơ sở dữ liệu lớn

Current Content: là cơ sở dữ liệu tóm tắt nổi tiếng nhất, do ISI (Institute for Scientific Information) phát triển, bao gồm thông tin tóm tắt các bài báo của trên 14.000 tạp chí chuyên ngành thuộc đủ mọi lĩnh vực. Các nguồn tra cứu miễn phí truy cập tại mục Free Resources, trong đó có:

Master Journal List: danh sách các tạp chí chuyên ngành có uy tín, thuộc hầu hết các chuyên ngành khoa học và kĩ thuật, do ISI bình chọn với các tiêu chí rất nghiêm ngặt;

Current Patents Gazette: thông tin phát minh sáng chế hàng tuần trên khắp thế giới;

Index to Organism Names: chỉ mục tên khoa học các loài sinh vật;

ISI Highly Cited.com: cơ sở dữ liệu các chuyên gia và đơn vị nghiên cứu có uy tín khoa học trên khắp thế giới;

In-cites: thông tin xếp hạng khoa học của các quốc gia, trường đại học, tạp chí, nhà nghiên cứu, bài báo, v.v.;

Expert Essays: các cơ sở dữ liệu và thông tin chuyên sâu về các trích dẫn khoa học;

v.v.

Applied Science & Technology Abstracts: tóm tắt (từ 1993) và chỉ mục (từ 1983) của trên 1,3 triệu bài báo của 485 tạp chí chuyên ngành thuộc các lĩnh vực khoa học ứng dụng và công nghệ. Phải đăng kí thành viên mới tra cứu được.

Chemical Abstracts: cơ sở dữ liệu hàng đầu thế giới trong lĩnh vực hoá học, do Hiệp hội Hoá học Hoa Kì (CAS) xây dựng và phát triển. Phải sử dụng các phần mềm chuyên dụng do CAS cung cấp mới tra cứu được.

Georef: cơ sở dữ liệu khoa học địa lí do Viện Địa lí Hoa Kì (AGI) xây dựng từ năm 1966, giới thiệu gần 3 triệu tài liệu gồm các bài báo, tựa sách, bản đồ, báo cáo hội nghị, báo cáo kĩ thuật, luận án, và hàng năm cập nhật hơn 90.000 tài liệu mới. Tuy nhiên phải đăng kí và trả tiền mới tra cứu được.

ACM: cơ sở dữ liệu tóm tắt và toàn văn về khoa học máy tính, do Hiệp hội Máy tính Hoa Kì (Association for Computing Machinery) phát triển. Tìm kiếm đơn giản miễn phí, phải đăng kí mới dùng được các chức năng tìm kiếm nâng cao và truy cập toàn văn.

PubMed: cơ sở dữ liệu khổng lồ về các bài báo chuyên ngành y học, hoá sinh và sinh học phân tử, do Thư viện Y học Quốc gia Hoa Kì (NLM) xây dựng và phát triển. Thông tin tóm tắt có hệ thống, có thông tin thống kê trích dẫn, có liên kết đến các nguồn cung cấp toàn văn (miễn phí hoặc thu phí) cho các bài báo.

Articles@INIST: cơ sở dữ liệu các tài liệu chuyên ngành do Viện Thông tin Khoa học và Kĩ thuật Quốc gia Pháp (INIST) phát triển.

Các tài liệu được đưa vào cơ sở dữ liệu này phải trải qua một quá trình đánh giá nghiêm ngặt của một hội đồng chuyên môn, nên giá trị khoa học rất cao.

Hiện nay đã có gần 2 triệu (từ 1990) tài liệu được lưu trữ, và hàng ngày cập nhật hàng ngàn tài liệu mới.

Tra cứu tóm tắt miễn phí bằng hai giao diện tiếng Pháp và tiếng Anh.

Có thể sử dụng từ khoá bằng nhiều thứ tiếng khác nhau.

Truy cập toàn văn có thu phí.

Nhà nghiên cứu ở các nước phương Nam (đang phát triển) được Tổ chức Đại học Pháp ngữ (AUF) hỗ trợ phần lớn kinh phí (65-85 %) để mua các tài liệu này. Ở Việt Nam có ba trung tâm hỗ trợ đặt tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP. HCM.

V.v.

Các danh bạ mạng

Một trong những loại công cụ tìm kiếm thông tin đầu tiên trên Internet là danh bạ mạng (Web directory/annuaire en ligne). Danh bạ nổi tiếng đầu tiên có lẽ là Yahoo!, ra đời năm 1994, do David Filo và Jerry Yang sáng lập. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của nhiều công cụ tìm kiếm khác, dường như các danh bạ mạng ngày càng ít được nhớ đến. Nhưng cũng không vì thế mà danh bạ mạng đánh mất đi giá trị của mình. Và nếu biết cách khai thác, người sử dụng Internet sẽ nhanh chóng tìm được những nguồn thông tin vô cùng hữu ích và có giá trị từ Internet.

Mục đích của danh bạ mạng

Các danh bạ mạng phân loại và sắp xếp các website theo các chủ đề lớn-nhỏ, chính-phụ,… giúp người dùng mạng dễ tìm kiếm hơn: ngay từ trang tiếp đón, người duyệt mạng tìm thấy một danh sách các mục và phụ mục sắp xếp theo chuyên đề, và chỉ cần nhấp chuột lên một chuyên đề rồi đi tiếp theo các chuyên đề phụ, để cuối cùng tìm thấy một danh sách các điểm mạng phù hợp với nhu cầu tìm kiếm.

Nguyên tắc hoạt động

Một websitecó thể được giới thiệu miễn phí trong một danh bạ mạng, nhưng cũng có thể phải trả phí, tuỳ theo tiêu chí hoạt động của mỗi danh bạ mạng (vô vụ lợi hay mục đích thương mại, quảng cáo). Điều cốt lõi nhất là: các danh bạ mạng được xây dựng dựa trên công việc biên tập của một hệ thống biên tập viên, tức có sự chọn lọc và đánh giá của con người.

Tuyển chọn: căn cứ tiêu chí hoạt động của danh bạ mạng, biên tập viên sẽ kiểm tra xem website cần giới thiệu có hoạt động hay không, có đáp ứng các yêu cầu về ngôn ngữ, về sự tôn trọng pháp luật và về tính mới mẻ, độc đáo trong nội dung hay không.

Lập chỉ mục: khi website đã được tuyển chọn, ban biên tập sẽ đưa vào chỉ mục ở vị trí phù hợp, và thường xuyên sắp xếp, tái cấu trúc các chuyên mục sao cho hợp lí.

Mô tả: các biên tập viên sẽ soạn một nội dung tóm tắt cho mỗi website, thường có các phần: tên website, mô tả nội dung (có thể là một bài viết tóm tắt thực sự hoặc chỉ là trích lại vài dòng thông tin của website), và tên chuyên mục mà website được xếp vào. Một số danh bạ có thể giới thiệu thêm một hay vài thông tin khác như: địa chỉ mạng, từ khoá, tác giả website, khả năng tìm kiếm thông tin,…

Phương thức tìm kiếm

Có hai cách tìm kiếm thông tin trong các danh bạ mạng:

Tìm theo mục và phụ mục: đây là cách tìm kiếm đơn giản nhất dành cho người dùng mạng.

Chỉ cần nhấp chuột lên một mục mong muốn, sau đó đến một phụ mục, rồi một phụ mục con nữa, cho đến khi nào tìm thấy được website phù hợp với nhu cầu tìm kiếm.

Các chủ đề được sắp xếp từ rộng nhất, rồi thu hẹp dần đến những chủ đề xác định nhất, qua nhiều cấp bậc liên tục. Số cấp bậc đề mục thay đổi tuỳ dung lượng và phạm vi nội dung mà danh bạ mạng giới thiệu.

Tìm theo từ: cách này đòi hỏi người dùng mạng phải có những hiểu biết nhất định về chủ đề cần tìm.

Chỉ cần gõ từ cần tìm vào ô tìm kiếm, và danh bạ sẽ thực hiện việc tìm kiếm trong toàn bộ nội dung của nó, bao gồm cả các chuyên mục và nội dung mô tả (tên website, tóm tắt,…).

Cách này có thể giúp liệt kê ra những chuyên mục và website có chứa từ cần tìm trong tiêu đề và nội dung của chúng, nhưng không đưa ra được danh sách đầy đủ các website phù hợp với chủ đề mà danh bạ đã sưu tập được.

Ưu điểm và nhược điểm của các danh bạ mạng

Có thể rút ra những đặc điểm chính của các danh bạ mạng như sau:

là công cụ “con người”: kết quả tìm kiếm, đánh giá và chọn lọc của con người (thường là các chuyên gia trong từng lĩnh vực);

sắp xếp “thủ công”: cấu trúc các chuyên mục do con người xây dựng theo một quan điểm nhất định;

chỉ giới thiệu tiêu đề: nội dung được giới thiệu là tên tài liệu/website, và mô tả tóm tắt, nhưng không lưu toàn văn tài liệu hay toàn bộ nội dung website;

danh mục không hoàn chỉnh, không cập nhật: danh sách được giới thiệu trong mỗi chuyên mục không phải là đầy đủ và hoàn chỉnh mà có tính chọn lọc tuỳ theo tiêu chí của danh bạ và khả năng nắm bắt thông tin của người biên tập, đồng thời thời gian cập nhật rất chậm;

tìm kiếm trên từ khoá chuyên đề: các từ khoá được sử dụng trong tên của các chuyên mục, tuy phụ thuộc vào quan điểm trình bày và sắp xếp của mỗi danh bạ, nhưng vẫn có độ tương đồng cao trong nhiều lĩnh vực.

Từ đó, có thể tạm đánh giá một số ưu điểm và nhược điểm của các danh bạ mạng:

Ưu điểm

Dễ tìm thấy các chủ đề tổng quát

Khi biết trước cấu trúc các chuyên đề chính-phụ trong lĩnh vực cần tìm tài liệu, sử dụng các danh bạ mạng sẽ nhanh chóng tìm được những chủ đề có tính chất tổng quát.

Nguồn tài nguyên có chất lượng chọn lọc cao

Thông thường các nguồn tài nguyên giới thiệu trong danh bạ mạng có chất lượng khá cao, kết quả của quá trình chọn lọc, đánh giá nghiêm túc của các biên tập viên chuyên nghiệp.

Nhược điểm

Nguồn tài nguyên được giới thiệu có giới hạn

Các danh bạ mạng chỉ sưu tập được một phần rất nhỏ các tài nguyên hiện hữu trên Mạng.

Khó tìm thấy các chủ đề chuyên biệt

Những chủ đề quá chuyên biệt, có tính đặc thù cao trong một số lĩnh vực rất có thể không hoặc chưa có mặt trong các chuyên mục của các danh bạ mạng.

Chậm cập nhật

Vì là công việc “thủ công”, việc cập nhật các danh bạ mạng diễn ra tương đối hoặc rất chậm.

Tìm kiếm theo từ khoá kém hiệu quả

Tìm kiếm theo từ khoá trong các danh bạ mạng thường ít khi mang lại ngay kết quả phù hợp như mong muốn.

Giới thiệu một số danh bạ mạng

WWW Virtual Library: đây là danh bạ mạng đầu tiên, do Tim Berners-Lee, người phát minh ra World Wide Web, sáng lập tại Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân Châu Âu (CERN), Geneva, Thuỵ Sĩ.

Mục tiêu hoàn toàn vô vụ lợi, được điều hành bởi một hội đồng được bầu chọn công khai.

Biên tập viên là chuyên gia trong mỗi lĩnh vực.

Cấu trúc chặt chẽ và gọn gàng, không quá 3 cấp chuyên mục.

Tính chọn lọc rất cao, thường là các website giới thiệu các nguồn tài nguyên trên Internet trong từng lĩnh vực.

Giao diện bằng 4 thứ tiếng: Anh, Tây Ban Nha, Pháp, Hoa.

Bubl Link: danh bạ mạng do Thư viện Andersonian (Đại học Strathclyde, Scotland) xây dựng.

Giới thiệu hơn 12.000 website và cơ sở dữ liệu trên Mạng, được một ban biên tập của thư viện chọn lọc, lưu chỉ mục, mô tả tóm tắt kĩ lưỡng.

Sắp xếp, trình bày rõ ràng theo hệ thống phân loại thập phân Dewey, với các website thuộc tất cả các chuyên ngành, lĩnh vực mà thư viện phụ trách.

Các chức năng tìm kiếm đa dạng, dễ sử dụng.

Open Directory: là danh bạ mạng phổ thông lớn nhất còn giữ được hoạt động cho tới hiện nay.

Tiêu chí hoàn toàn tự nguyện, vô vụ lợi.

Đã sưu tập được gần 5 triệu website, xếp trong hơn 590.000 chuyên mục thuộc đủ các lĩnh vực, từ giải trí đến khoa học, với trên 75.000 biên tập viên (là chuyên gia trong lĩnh vực họ phụ trách).

Được Google hỗ trợ để cải thiện khả năng tìm kiếm, bổ sung chức năng xếp hạng website,… trong Google Directory.

Librarians’ Internet Index: danh bạ mạng phổ thông, phát triển từ những năm 1990, hiện nay do Học viện Bảo tàng và Dịch vụ Thư viện (California, Hoa Kì) tài trợ, có bản tin hàng tuần gửi qua thư điện tử, thông báo danh sách các website mới được chọn lọc và giới thiệu với những tiêu chí rõ ràng.

Internet Public Library: do Đại học Michigan xây dựng và phát triển, giới thiệu các nguồn tài nguyên dạy và học thuộc đủ các lĩnh vực. Có các chuyên mục đặc biệt hay như các lịch niên giám (almanac), bách khoa thư, tiểu sử, nguồn tham khảo, v.v.

Science.gov: danh bạ các nguồn tài nguyên và kết quả nghiên cứu khoa học, do nhiều cơ quan khoa học Hoa Kì hợp tác xây dựng.

Các bộ máy tìm kiếm

Các bộ máy tìm kiếm (search engine/moteur de recherche) ra đời từ giữa những năm 1990, với chức năng tìm kiếm khác hẳn các danh bạ mạng: thay vì tìm kiếm các website như danh bạ mạng, các bộ máy tìm kiếm lại sưu tập các trang web, đọc toàn bộ nội dung của từng trang và lưu vào chỉ mục. Người dùng mạng chỉ cần gõ từ khoá cần tìm và bộ máy sẽ tìm trong toàn bộ các nội dung đó.

Phương thức tìm kiếm

Các bộ máy tìm kiếm tìm kiếm các thông tin trên Mạng bằng cách:

sử dụng một chương trình gọi là robot (hay crawler, spider) tự động lướt khắp hệ thống Mạng toàn cầu thông qua các siêu liên kết (hyperlink/lien hypertexte) có trong mỗi trang web và sao chép toàn bộ nội dung (địa chỉ, tiêu đề, siêu dữ liệu metadata/metadonnée, các đoạn văn bản, v.v.) của những trang web mà nó đọc được;

lập chỉ mục các trang web với tất cả những thông tin mà các robot đã sao chép được sau mỗi vòng hành trình qua khắp hệ thống Mạng;

đưa chỉ mục lên Mạng, cho phép người dùng mạng tra cứu chỉ mục này thông qua một giao diện web, với cách thức trình bày và các chức năng tìm kiếm khác nhau, tuỳ mỗi bộ máy.

Nếu tưởng tượng Mạng toàn cầu là một thư viện khổng lồ, với mỗi website là một cuốn sách, mỗi trang web là một trang sách, thì:

các danh bạ mạng giúp tìm đến được từng cuốn sách (với tiêu đề, tác giả, nhà xuất bản, năm xuất bản,…);

các bộ máy tìm kiếm giúp tìm được đến từng trang sách, với từng câu, từng chữ, từng dòng thông tin, từng dấu chấm dấu phẩy trong mỗi trang, kể cả trang bìa, cũng như tất cả các yếu tố đi kèm như hình ảnh, tập tin, siêu liên kết,…

Với các bộ máy tìm kiếm, có thể:

tìm những thông tin chính xác: như thông tin liên lạc của một cá nhân, tổ chức, hoặc chi tiết liên quan đến một sản phẩm nào đó;

tìm những tài liệu chuyên biệt, đặc thù: như các công ước quốc tế, các văn bản nhà nước;

tìm những website mới xuất hiện trên Mạng: với vòng quay tương đối nhanh, các robot có thể tiếp cận các trang web mới hoặc quay lại cập nhật các trang web đã lưu chỉ mục trong vòng vài tuần lễ;

kết hợp các công thức tìm kiếm đa dạng, với các từ khoá, thuật ngữ, thuật toán khác nhau theo khả năng đáp ứng và công nghệ phát triển của từng bộ máy.

Tuy nhiên, có một điểm cần lưu ý khi sử dụng các bộ máy tìm kiếm, đó là các trang được đưa ra trong kết quả tìm kiếm không phải là trang hiện hữu trên Mạng, mà là trang được lưu trong chỉ mục của bộ máy tìm kiếm.

Chỉ khi nhấn vào siêu liên kết thì mới truy cập vào đúng trang hiện hữu.

Khi nội dung trang được mở ra không hoàn toàn giống với trang giới thiệu trong kết quả, điều đó có nghĩa là nội dung trang này đã được sửa mà robot của bộ máy tìm kiếm chưa kịp quay lại để cập nhật.

Khi mở trang được giới thiệu trong kết quả tìm kiếm mà xuất hiện lỗi “Error 404. Page not found”, điều đó có nghĩa là trang này đã bị xoá, không còn tồn tại trên Mạng, mà bộ máy tìm kiếm chưa kịp cập nhật hoặc xoá bỏ khỏi chỉ mục.

Các vấn đề kĩ thuật

Có một số bộ máy tìm kiếm phát triển thuật toán tra cứu theo một công nghệ đặc biệt: thay vì tìm kiếm theo từ chính xác trong toàn bộ chỉ mục, người dùng chỉ cần đặt một câu hỏi như trong ngôn ngữ tự nhiên, bộ máy sẽ phân tích nội dung câu hỏi để tìm các thông tin trả lời (vẫn trong các trang đã lưu chỉ mục) và đưa ra kết quả.

Mặc dù có phạm vi bao phủ rất rộng, nhưng các bộ máy tìm kiếm cũng chỉ thu thập và lưu chỉ mục được một phần rất nhỏ của toàn bộ thông tin hiện hữu trên Mạng toàn cầu, đặc biệt là hoạt động kém hiệu quả với các trang thuộc “mạng ẩn”.

Khái niệm “mạng ẩn” (web invisible) hay “mạng tầng sâu” (deep web/web profonde) dùng để chỉ những website sử dụng kĩ thuật tạo các trang động (dynamic page/page dynamique), và chỉ truy xuất được thông tin khi gửi yêu cầu thông qua một biểu mẫu (form/formulaire) truy cập cơ sở dữ liệu.

Mạng ẩn hay mạng tầng sâu bao gồm các cơ sở dữ liệu (các bộ máy tìm kiếm không thể tự điền thông tin vào biểu mẫu để truy xuất thông tin), các website đòi hỏi có tài khoản sử dụng và đăng nhập trước khi truy xuất thông tin, các website mà người quản trị ngăn chặn việc truy cập của các robot,…

Dung lượng của mạng ẩn hay mạng tầng sâu được đánh giá là lớn gấp hàng trăm lần dung lượng phần Mạng được các bộ máy tìm kiếm lưu chỉ mục (nhiều người gọi là “mạng rõ” – visible web/web visible hay “mạng tầng mặt” – surface web/web surfacique).

Ưu điểm và nhược điểm của các bộ máy tìm kiếm

Có thể rút ra những đặc điểm chính của các bộ máy tìm kiếm như sau:

là công cụ tự động: kết quả tìm kiếm của các robot tự động lướt khắp Mạng toàn cầu thông qua các siêu liên kết;

sắp xếp tự động: toàn bộ thông tin sao chép được của các robot được tự động lưu vào chỉ mục, với các trường thông tin đã lập trình sẵn;

giới thiệu từng trang: tìm kiếm trong toàn bộ nội dung các trang web đã lưu chỉ mục;

danh mục không hoàn chỉnh, không cập nhật: danh sách các website và trang web được lưu chỉ mục chỉ chiếm một phần rất nhỏ dung lượng Mạng toàn cầu, và thời gian cập nhật còn chậm (nhất là với các trang có ít siêu liên kết hướng vào);

tìm kiếm trên từ chính xác: các kết quả được đưa ra có chính xác các từ được sử dụng trong công thức tìm kiếm.

Từ đó, tạm thời rút ra các nhận xét về ưu nhược điểm của các bộ máy tìm kiếm:

Ưu điểm

Rất nhiều thông tin

Các bộ máy tìm kiếm có khả năng cung cấp một lượng thông tin rất khổng lồ.

Thông tin chính xác

Các bộ máy tìm kiếm cho phép tiếp cận được những thông tin rất chính xác, cụ thể.

Phân hạng kết quả

Thông thường các bộ máy tìm kiếm đều có cơ chế xếp hạng kết quả tìm kiếm theo mức độ phù hợp giảm dần. Dù sự xếp hạng là tự động, máy móc, nhưng hầu hết các thông tin phù hợp đều được tìm thấy trong những trang kết quả đầu tiên.

Cho phép kết hợp nhiều công thức tìm kiếm

Hầu hết các bộ máy tìm kiếm đều cung cấp nhiều khả năng tìm kiếm và phối hợp các công thức tìm kiếm khác nhau.

Nhược điểm

Kiểm soát thông tin ít nhiều kém hiệu quả

Lượng dữ liệu khổng lồ lưu trữ trong chỉ mục dẫn đến sự hạn chế trong kiểm soát thông tin. Có rất nhiều địa chỉ cung cấp trong kết quả tìm kiếm không còn hoạt động.

Kĩ thuật tra cứu phức tạp

Giao diện và kĩ thuật tra cứu thay đổi tuỳ theo bộ máy tìm kiếm, dù vẫn có một số điểm tương đồng. Người mới làm quen với máy tính hay Internet cần không ít thời gian để có thể làm chủ được thao tác.

Kết quả đôi khi không liên quan hoặc thường bị “nhiễu”

Do toàn bộ quá trình sưu tập thông tin và lập chỉ mục đều tự động, và việc tìm kiếm được thực hiện trên toàn bộ thông tin của từng trang, có không ít kết quả không liên quan đến chủ đề tìm kiếm vẫn được đưa vào.

Giới thiệu một số bộ máy tìm kiếm

Ask Jeeves: cơ chế tìm kiếm theo ngôn ngữ tự nhiên, có thể cho phép lưu trữ đến 1000 kết quả tìm kiếm, sắp xếp và ghi chú trong hồ sơ cá nhân. Có nhiều kiểu giao diện khác nhau cho người dùng lựa chọn, và các phiên bản tiếng Nhật, Tây Ban Nha, Đức, Pháp, Hà Lan, Ý.

Brainboost: tìm kiếm theo ngôn ngữ tự nhiên, kết quả được trích từ các trang web có chứa thông tin trả lời cho câu hỏi được đặt ra.

Exalead: hai giao diện Exalead tiếng Pháp và Exalead tiếng Anh. Có nhiều chức năng tìm kiếm nâng cao giúp giới hạn phạm vi tìm kiếm. Kết quả được giới thiệu kèm với hình ảnh thu nhỏ của trang web và những gợi ý giúp tìm kiếm kĩ hơn bằng các thuật ngữ, khái niệm lân cận và chủ đề liên quan.

Factbites: cung cấp thông tin bách khoa, với những trích đoạn hoàn chỉnh và có nghĩa về vấn đề đang tìm kiếm, thu thập được từ các trang web khác nhau, gợi ý các chủ đề lân cận, có liên quan cũng như danh sách các chủ đề được tìm kiếm nhiều nhất. Giao diện duy nhất bằng tiếng Anh.

Google: bộ máy tìm kiếm được sử dụng nhiều nhất hiện nay, sưu tập được một lượng thông tin vô cùng lớn trên Mạng, bằng hầu như tất cả các thứ ngôn ngữ có tồn tại trên Internet. Có nhiều tính năng tìm kiếm nâng cao khác nhau, giúp dễ dàng giới hạn phạm vi tìm kiếm. Có giao diện bằng nhiều thứ tiếng, kể cả tiếng Việt.

Tiêu chí xếp hạng PageRank do Google định nghĩa dựa vào cách tính toán số siêu liên kết hướng vào (tăng điểm) và hướng ra (giảm điểm) của một website. Do đó, PageRank cao chỉ đồng nghĩa với mức độ phổ biến của một trang web hay website chứ không hoàn toàn đồng nghĩa với chất lượng thông tin của trang web hay website đó.

Kết quả tìm kiếm được trình bày theo kiểu trích đoạn các phần nội dung có chứa chính xác từ cần tìm kiếm, đôi khi toàn bộ các đoạn trích không liên quan gì đến nhau.

Kết quả của một lượt tìm kiếm thường quá nhiều, đến mức khó hoặc không thể xử lí nổi.

Google Scholar: phiên bản thử nghiệm, giúp tìm kiếm các thông tin thuần tuý khoa học và học thuật (sách, tạp chí, luận văn, luận án, bài giảng,…), thu thập từ các trường đại học, viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm, nhà xuất bản khoa học, các chuyên gia, các tổ chức, v.v.

Scirus: tìm kiếm các tài liệu có tính học thuật trong các ngành khoa học (giới thiệu và/hoặc phổ biến qua Science Direct, PubMed, ArXiv, BioMed Central, v.v.), hiệu quả tốt hơn Google Scholar về nhiều mặt, với nhiều tính năng tìm kiếm nâng cao và giới hạn phạm vi tìm kiếm.

Yahoo!: bộ máy tìm kiếm tương tự như Google, cũng khá phổ biến và hiệu quả, có nhiều chức năng tìm kiếm nâng cao, hạn chế phạm vi tìm kiếm, v.v.

Bài tập tự kiểm tra

Các nguồn tài nguyên khác

Ngoài các nguồn tài nguyên đã kể ở trên còn có nhiều nguồn tài nguyên khác từ lớn đến nhỏ, từ đơn giản đến phức tạp, đã, đang và sẽ phát triển từng ngày từng giờ trên Mạng, gần như không thể liệt kê, phân loại một cách đầy đủ và hoàn chỉnh.

Đối với việc tìm kiếm tài liệu khoa học kĩ thuật trên Internet, có nhiều nguồn thông tin khác khá chuyên biệt và đặc thù.

Các website trường, viện, phòng thí nghiệm

Hiện nay, đa số các trường đại học, viện nghiên cứu và phòng thí nghiệm lớn trên thế giới đều phát triển các ứng dụng web, đưa các nguồn tài nguyên giảng dạy, học thuật và nghiên cứu lên Mạng để cán bộ, giảng viên, sinh viên truy cập nội bộ, hoặc có nhiều phần được cho phép truy cập tự do.

Danh sách các trường đại học được giới thiệu trong Open Directory

Danh sách các trường được ISI xếp hạng khoa học cao năm 2007

Danh sách các viện nghiên cứu khoa học (Open Directory)

Các nguồn thông tin tổng quát về nghiên cứu của Bubl Link

Các tổ chức, hiệp hội khoa học lớn

Có rất nhiều tổ chức, hiệp hội khoa học lớn cung cấp nhiều nguồn tài liệu, thông tin trong lĩnh vực họ phụ trách, vô cùng phong phú, đa dạng và sâu sắc. Các tổ chức này thường có các chế độ ưu đãi phí dịch vụ, thậm chí miễn phí, cho thành viên của mình, cho các trường học, sinh viên, và đặc biệt hơn là cho các nước đang phát triển.

Danh sách các viện và hiệp hội khoa học (Open Directory)

Danh sách các quỹ đầu tư và tài trợ nghiên cứu (Open Directory)

Danh sách các hiệp hội khoa học theo từng chuyên ngành (Open Directory)

Các cổng thông tin chuyên đề

Sự phát triển nhanh chóng của Internet đã cho thấy sự “hụt hơi” của các danh bạ mạng phổ thông, trong khi các bộ máy tìm kiếm lại lắm khi đưa người dùng vào một “mê hồn trận” thông tin. Điều đó dẫn đến một hướng phát triển mới của các công cụ tìm kiếm thông tin, đó là các cổng thông tin chuyên đề (portal/portail thématique).

Thay vì bao quát tất cả các lĩnh vực, mỗi cổng thông tin chuyên đề chỉ tập trung khai thác, giới thiệu các nguồn tài nguyên chuyên biệt trong một hoặc vài lĩnh vực nào đó. Tuỳ mỗi cổng thông tin chuyên đề, có thể có sự tích hợp nhiều loại công cụ tìm kiếm và trình bày thông tin khác nhau: danh bạ, chỉ mục, bộ máy tìm kiếm, tin tức, các chuyên mục chủ đề, v.v.

Các thư viện của các trường đại học lớn cũng là một dạng cổng thông tin chuyên đề, với thế mạng chuyên về các nguồn thông tin khoa học và học thuật dành cho giảng viên và sinh viên.

LibWeb: danh sách các thư viện trên thế giới có cổng thông tin trên Mạng.

Intute: cổng thông tin về khoa học xã hội, được sát nhập từ SOSIG (Cổng Thông tin Khoa học Xã hội – Social Sciences Information Gateway) do trường Đại học Bristol (Anh) phát triển và Altis (một danh bạ các nguồn tài nguyên Internet) do trường Đại học Birmingham (Anh) phát triển.

Infomine: do các thư viện của một số trường đại học Hoa Kì phát triển, giới thiệu các nguồn tài nguyên học thuật và nghiên cứu cho giảng viên và sinh viên đại học.

Biology Browser: cổng thông tin sinh học của Thomson Scientific (ISI).

EnviroLink: cổng thông tin môi trường, do Josh Knauer (Carnegie Mellon University) xây dựng từ năm 1991.

Math on the Web: cổng thông tin toán học, do Hiệp hội Toán học Hoa Kì xây dựng.

PhysLink: cổng thông tin vật lí và thiên văn học.

Statistics.com: cổng thông tin thống kê.

Culture: cổng thông tin văn hoá. Nội dung bằng tiếng Pháp.

Trào lưu Open Access

Đây là một xu hướng mới, đang phát triển mạnh trên khắp thế giới, nhằm mục tiêu giúp giảm thiểu chi phí truy cập toàn văn các tài liệu khoa học, kĩ thuật, đặc biệt được các tổ chức lớn lưu ý trong các chương trình hỗ trợ các nước đang phát triển. Các luận án cũng dần dần được các trường đại học lớn đưa lên Mạng cho truy cập toàn văn.

DOAJ: danh bạ các tạp chí Open Access.

Các nguồn tài nguyên khoa học, kĩ thuật và giáo dục ưu tiên cho các nước đang phát triển (nguồn: Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế):

phần 1A (trang 1): các tạp chí hoàn toàn hoặc phần lớn miễn phí;

phần 1B (trang 2): các tạp chí miễn hoặc giảm phí cho các nước đang phát triển (thư viện của các đơn vị đào tạo – nghiên cứu đều có thể đăng kí để nhận tài khoản sử dụng);

phần 2 (các trang 2-5): các kho lưu trữ tài liệu, thống kê, thông tin trích dẫn khoa học, do các tổ chức lớn bảo trợ, hoàn toàn miễn phí hoặc ưu tiên cho mục tiêu phát triển.

phần 3 (các trang 6 và 7): các dịch vụ hỗ trợ phân phối tài liệu cho các nước đang phát triển.

Infothèque: thư viện thông tin khoa học, kĩ thuật và giáo dục bằng tiếng Pháp.

Sưu tập và giới thiệu các tài liệu (giáo trình, chuyên khảo, sách, cơ sở dữ liệu, luận án, báo cáo, tạp chí chuyên ngành, các nguồn tài nguyên,v.v.) truy cập trực tiếp trên Internet, thuộc tất cả các chuyên ngành.

Hệ thống tuyển chọn và biên tập khá chặt chẽ. Hiện có trên 5000 nguồn đã được thông qua và vẫn được thường xuyên cập nhật. Các giảng viên, nhà nghiên cứu và sinh viên biết tiếng Pháp nếu có đủ khả năng có thể được tuyển làm biên tập viên với thù lao tương xứng.

Cổng giới thiệu các thông tin hoạt động, xuất bản và nguồn tài nguyên hỗ trợ phát triển giáo dục, đào tạo, giảng dạy và nghiên cứu.

PLoS: Thư viện Khoa học Mở (Public Library of Science), được xây dựng nhằm đưa thông tin khoa học, kĩ thuật và y học đến với tất cả mọi người. Có các nguồn tài nguyên đáp ứng tiêu chí Open Access, các tạp chí khoa học do PLoS lập hội đồng biên tập.

CERN Document Server: trung tâm tài liệu của Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân Châu Âu (nơi Tim Berners-Lee phát minh ra Mạng toàn cầu). Lưu trữ hơn 800.000 tóm tắt và 300.000 toàn văn sách, báo, hình ảnh, v.v.

ETDs: danh sách các luận án của trường Đại học Công nghệ Virginia (Hoa Kì).

Cyberdocuments: danh sách các luận án của trường Đại học Geneva (Thuỵ Sĩ).

THESE CANADA PORTAL: cổng thông tin về các luận án của Canada. Có nhiều luận án có toàn văn miễn phí. Hai giao diện tiếng Anh và tiếng Pháp.

Các nhà xuất bản khoa học và nhà trung gian cung cấp tài liệu

Hiện nay hầu hết các nhà xuất bản khoa học đều phát triển các website của mình để giới thiệu các ấn phẩm của mình (sách, báo) và trực tiếp cung cấp dịch vụ phân phối tài liệu. Chi phí mua tài liệu trực tiếp khá đắt so với mức sống bình quân ở Việt Nam.

Ngoài ra, có nhiều nhà trung gian phát triển các dịch vụ cung cấp tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, thậm chí từ nguồn đã qua sử dụng (như sách). Chi phí tuy có giảm nhưng vẫn còn rất cao so với đời sống ở Việt Nam.

Danh sách các nhà xuất bản giáo dục, khoa học và kĩ thuật (Open Directory): hầu hết các nhà xuất bản lớn về giáo dục, khoa học, kĩ thuật trên khắp thế giới.

ScienceDirect: cổng thông tin khoa học, y học và công nghệ. Cơ sở dữ liệu tóm tắt sách và tạp chí chuyên ngành. Cung cấp toàn văn có thu phí. Một số bài sau một thời hạn được cung cấp miễn phí.

IngentaConnect: cổng thông tin tập hợp trên dưới 20 triệu tài liệu từ hơn 30.000 ấn bản khoa học và giáo dục. Tìm tóm tắt miễn phí. Phải trả phí dịch vụ mới xem được toàn văn.

Springer: một nhà xuất bản lớn với nhiều sách, tạp chí thuộc đủ các chuyên ngành.

Các bách khoa thư, các loại từ điển

Bách khoa thư là một loại tài nguyên quan trọng có tính định hướng cho công tác nghiên cứu tài liệu, trước khi đi vào các nghiên cứu chuyên sâu. Có nhiều loại bách khoa thư, từ nổi tiếng với hội đồng biên tập khoa học lão luyện, có nhiều kinh nghiệm và chuyên gia uy tín, đến nổi tiếng bằng phong cách… mở, tận dụng tri thức, hiểu biết và cả… lương tâm của số đông (?!).

Song song đó, có các loại từ điển thuật ngữ hoặc từ điển giải thích chuyên ngành, với độ sâu và chính xác trong từng chuyên ngành hẹp cao hơn. Các từ điển này rất có ích, đặc biệt là khi tra cứu ngữ nghĩa của các thuật ngữ mới hoặc lạ trong khoa học.

Dưới đây là một số danh sách các từ điển tiếng, từ điển thuật ngữ và bách khoa thư được giới thiệu trong Open Directory:

Các từ điển tiếng Anh, từ điển thuật ngữ, từ điển giải thích, công cụ dịch thuật

Các bách khoa thư tiếng Anh

Các từ điển thuật ngữ và từ điển chuyên sâu tiếng Anh

Các từ điển tiếng Pháp

Các bách khoa thư tiếng Pháp

Các từ điển chuyên sâu tiếng Pháp

Các bộ thuật ngữ chuyên đề (thesauri) tiếng Anh

Các bộ thuật ngữ chuyên đề (thésaurus) tiếng Pháp

Các diễn đàn chuyên môn

Hiện nay có rất nhiều diễn đàn (forum) trên Mạng được mở ra, phát triển với số lượng thành viên đông đảo. Có thể là các diễn đàn trong nước hay quốc tế. Tham gia các diễn đàn có thể chỉ là những người yêu thích hoặc cũng có thể là những chuyên gia trong mỗi chuyên ngành.

Tuỳ vào cách tổ chức và quản lí của mỗi diễn đàn, có thể tìm thấy những nguồn thông tin, ý kiến trao đổi, tư vấn, định hướng, v.v. có ý nghĩa nhất định trong quá trình tìm kiếm thông tin, tài liệu tham khảo và trong công tác nghiên cứu.

Các website cá nhân, chuyên gia

Nhiều chuyên gia thường tự xây dựng cho website cá nhân để đăng tải những thông tin liên quan đến bản thân, kết quả nghiên cứu, các tài liệu đã công bố, v.v. Đây có thể xem là một nguồn thông tin khoa học không chính quy nhưng có giá trị.

 

Nguồn: P KH - HT