null Tóm tắt thuyết minh đề tài “Tăng cường đóng góp của khoa học công nghệ cho phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam 2016-2020” ; “Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp thành phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030”

Tên đề tài: “Tăng cường đóng góp của khoa học công nghệ cho phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam 2016-2020”

Thành viên nghiên cứu từ Khoa Kế hoạch Phát triển:

  1. ThS, NCS. Lê Huy Đoàn- Chủ nhiệm
  2. ThS. Bùi Thị Hoàng Mai-Thư ký
  3. ThS, NCS. Trần Thị Trúc-Thành viên
  4. ThS. Nguyễn Hữu Xuân-Thành viên.

 

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Sau gần 30 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng cả về kinh tế và xã hội. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Kế hoạch 5 năm 2011-2015 đã và đang được thực hiện, nhờ những nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, kinh tế nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn thách thức, đạt được những kết quả quan trọng trong nhiều lĩnh vực. Kinh tế vĩ mô cơ bản đã ổn định, lạm phát được kiểm soát; các đột phá chiến lược và tài cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng đạt được nhiều kết quả ban đầu quan trọng; các nguồn lực phục vụ phát triển không ngừng được huy động và sử dụng quy mô, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế được tăng lên. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2011-2015 có khả năng đạt 5,8%/năm. Năm 2015, quy mô nền kinh tế vào khoảng 205 tỷ USD, gấp khoảng 1,85 lần so với năm 2010. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo mục tiêu của đề án Tái cấu ngành, lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Các ngành, lĩnh vực, đóng góp quan trọng vào duy trì tốc độ và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Năng suất lao động có chuyển biến đáng khích lệ, trình độ công nghệ được cải thiện; vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả hơn. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội có bước phát triển; an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Quốc phòng an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quôc tế đạt nhiều kết quả.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng khích lệ, quá trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, yếu kém. Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc. Cân đối ngân sách còn khó khăn nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn; chất lượng tín dụng thấp, thị trường vốn và hệ thống tài chính hoạt động chưa đạt hiệu quả cao, đặc biệt với chức năng huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Tăng trưởng kinh tế đạt được thấp so với kế hoạch đặt ra. Chất lượng tăng trưởng cải thiện chậm. Tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng còn chậm. Hiệu quả sử dụng các nguồn lực phát triển còn thấp, đặc biệt là nguồn lực đầu tư công. Các cơ chế huy động và phân bổ nguồn lực cho phát triển, đặc biệt là nguồn lực tài chính, nhân lực, khoa học công nghệ còn có những hạn chế. Điều này hạn chế quá trình thiết lập nền tảng vững chắc để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Yêu cầu phát triển đến năm 2020 để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại buộc nền kinh tế phải đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn trước, các đột phá chiến lược, tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng là những nhiệm vụ trọng tâm cần phải được thực hiện. Các quy luật kinh tế thị trường, đặc biệt đối với nguồn lực tài chính cần phải được đổi mới mạnh mẽ. Việc phối hợp hiệu quả giữa chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ và các chính sách khác để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế; động viên hợp lý, phân bổ hiệu quả nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã hội.

Báo cáo đề tài này tập hợp kết quả nghiên cứu bước đầu, sẽ tập trung đánh giá những kết quả đạt được chủ yếu trong huy động nguồn lực phục vụ cho phát triển trong giai đoạn 2011-2013, đồng thời đánh giá những vướng mắc, nút thắt trong việc huy động đóng góp của KHCN vào phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam và với nỗ lực để gợi ý những đề xuất trong việc xây dựng, chỉnh sửa, bổ sung các cơ chế, chính sách nhằm tăng cường phát triển và nâng cao đóng góp của KHCN cho mục tiêu phát triển của Việt Nam từ nay đến năm 2020.

 

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

       Tìm ra những điểm nghẽn, những vướng mắc trong vấn đề huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Từ đó, đưa ra những khuyến nghị cần thiết nhằm động viên hợp lý, phân bổ và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 – 2020.

 

3. Đối tư­­ợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 

Về đối tượng nghiên cứu: Tình hình/Hiện trạng và các yếu tố tác động đến huy động, phân bổ và sử dụng bốn nhóm nguồn lực: tài chính, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và KHCN.

Về không gian: Không gian nghiên cứu chủ yếu ở Việt Nam, có tìm hiểu kinh nghiệm về vấn đề nghiên cứu ở một số nước trên thế giới.

Về thời gian: Lựa chọn tùy theo nhóm nguồn lực căn cứ trên các dấu mốc chính sách.

 

 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài  

       - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về các nguồn lực phát triển và huy động các nguồn lực phát triển cho Việt Nam.

       - Đánh giá những mặt đ­ược và ch­ưa đ­ược của việc huy động các nguồn lực phát triển của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015; đánh giá cơ chế chính sách nhằm huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực phát triển; tìm ra những nút thắt trong huy động và phân bổ hiệu quả nguồn lực.

        - Đề xuất các giải pháp huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn phục vụ phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2016-2020.

 

5. Nội dung chính của đề tài

- Hiện trạng phát triển KHCN và đóng góp của KHCN vào phát triển kinh tế xã hội (KTXH)

- Các quan điểm, chính sách của Nhà nước về KHCN

- Những vướng mắc đang cản trở sự phát triển KHCN và đóng góp của KHCN cho phát triển KTXH

 

Đề tài “Tăng cường đóng góp của KHCN vào phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam 2016-2020” là một đề tài rộng cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Vì vậy, mặc dù đã rất cố gắng trong nghiên cứu, tuy nhiên công trình nghiên cứu sẽ tiếp tục được triển khai nghiên cứu sâu trong thời gian tới. Chúng tôi mong nhận được sự chỉ dẫn của các cơ quan chức năng, sự hợp tác của các nhà khoa học và đồng nghiệp để công trình nghiên cứu được hoàn thiện hơn./.

Nhóm nghiên cứu

 

 

Tên đề tài: Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp thành phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030”

 

Cấp xét duyệt: Thành phố Hà Nội.

 

Cơ quan thực hiện: Học viện Chính sách và Phát triển (APD)

  

Thành viên nghiên cứu:

  1. PGS. TS. Đào Văn Hùng-APD-Chủ nhiệm
  2. ThS, NCS. Lê Huy Đoàn- APD-Thư ký Khoa học
  3. ThS. Bùi Thị Hoàng Mai-APD-Thư ký Hành chính
  4. PGS. TS. Phạm Quý Thọ-APD-Thành viên
  5. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Sơn-Đại học Kinh tế Quốc dân, Thành viên
  6. TS. Đào Hoàng Tuấn-APD-Thành viên
  7. ThS.Nguyễn Thị Đông-APD-Thành viên
  8. ThS, NCS. Trần Thị Trúc-APD-Thành viên
  9. ThS. Lê Duy Anh-APD-Thành viên

 

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Thủ đô Hà Nội sau gần ba thập kỷ cải cách và mở cửa đang đứng trước bối cảnh và thời cơ mới: Kinh tế đi dần vào phát triển ổn định, tốc độ tăng trưởng và mức GDP/đầu người thuộc những tỉnh thành cao trong nước; Thể chế KTTT từng bước hình thành đồng bộ; con người, đời sống, văn hóa của Thủ đô được cải thiện.

Hà Nội hiện đang có những tiềm năng và lợi thế lớn để phát triển một cơ cấu kinh tế tiên tiến, điều chỉnh mô hình tăng trưởng và quy hoạch bố trí lại không gian kinh tế - xã hội - đô thị nhằm thực hiện chiến lược CNH-HĐH rút ngắn, tạo dựng gương mặt Thủ đô văn minh hiện đại. Chiến lược phát triển Thủ đô tới năm 2030 tầm nhìn 2050 và Quy hoạch Thủ đô tới năm 2050 đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và khung phát triển cơ bản cho Hà Nội trong thế kỷ XXI. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XV (2010) khẳng định: “Đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, thanh lịch, hiện đại… phấn đấu đến trước năm 2020, Hà Nội cơ bản trở thành Thủ đô công nghiệp theo hướng hiện đại”.

Nghị quyết 01/2012/NQ-HĐND ngày 05 tháng 4 năm 2012 của Hội đồng Nhân dân thành phố đã thông qua Quy hoạch Phát triển công nghiệp thành phố Hà Nội đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 và quyết định số 2261/QĐ-UBND ngày 25 tháng 5 năm 2012 của UBND thành phố Hà Nội với mục tiêu: “Xây dựng Thủ đô Hà Nội trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ cao của cả nước; phát triển công nghiệp gắn với phát triển khoa học công nghệ, gắn với phát triển các trung tâm nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, thử nghiệm sản phẩm mới và văn phòng của các tập đoàn sản xuất lớn; tạo nên các sản phẩm chất lượng và giá trị cao có khả năng cạnh tranh và đáp ứng tiêu chuẩn tiên tiến của các nước…”. Trong đó, mục tiêu chỉ số sản xuất công nghiệp giai đoạn 2011-2015 tăng trưởng bình quân 12,13%/năm; giai đoạn 2016 - 2020 đạt 11,32%/năm và giai đoạn 2021 - 2030 đạt 10,20%/năm; công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng 41-42% (trong đó công nghiệp chiếm 31-32%) năm 2015 và giữ ổn định 41-42% vào năm 2020 trong tổng giá trị GRDP của Thành phố. Các ngành công nghiệp chủ đạo, có lợi thế cạnh tranh được chú trọng phát triển là những ngành công nghệ sạch, các ngành có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như công nghệ tự động hóa, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ điện tử, công nghệ thông tin, sản phẩm cơ khí, chế tạo máy, chế biến thực phẩm, dược phẩm và sản phẩm vật liệu mới. Nhiều giải pháp nhằm thực hiện thành công quy hoạch này cũng được đưa ra như giải pháp về công nghệ, giải pháp về vốn, giải pháp về nhân lực và giải pháp về tổ chức quản lý.

Tuy vậy, chất lượng tăng trưởng của công nghiệp thành phố Hà Nội trong thời gian vừa qua được đánh giá là chưa cao, chưa thực sự đáp ứng được kỳ vọng tăng trưởng và vai trò của ngành đối với sự phát triển của nền kinh tế Thủ đô, thể hiện ở khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng thiếu ổn định và có xu hướng chậm lại trong những năm gần đây; chi phí trung gian trong giá trị sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng do sự phát triển chậm của công nghiệp phụ trợ cho các ngành công nghiệp chủ lực của thành phố; ở trình độ công nghệ chưa thực sự đổi mới; ở năng lực cạnh tranh chưa cao. Cụ thể:

Thứ nhất, trong hơn 2 năm thực hiện quy hoạch phát triển ngành công nghiệp của thành phố, bối cảnh, điều kiện phát triển kinh tế của cả nước nói chung và của Hà Nội nói riêng đã liên tục có những biến động do những nguyên nhân khách quan từ sự đình trệ của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là của các đối tác thương mại và đầu tư chính của Việt Nam đã tác động tiêu cực đến khả năng tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khả năng thu hút đầu tư, đổi mới công nghệ, phát triển nguồn nhân lực của nền kinh tế và của Hà Nội theo các mục tiêu quy hoạch đã xác định.

Bối cảnh kinh tế trong nước chứng kiến những thách thức hết sức to lớn về khả năng duy trì ổn định nền kinh tế vĩ mô, ổn định lạm phát, duy trì tốc độ tăng trưởng và nhịp độ tiến bộ xã hội trước những thắt chặt hoạt động đầu tư công trong những năm gần đây; yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế đã đặt ra những cải thiện nổi bật trong hệ thống luật pháp và chính sách, đặc biệt là sự ra đời của luật Đầu tư công, luật Xây dựng sửa đổi, luật Đấu thầu sửa đổi…đã đặt ra những yêu cầu mới và những thay đổi căn bản đối với quá trình quản lý đầu tư phát triển, quá trình cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, phát triển công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,… phục vụ tăng trưởng và phát triển của cả nước nói chung và của Hà Nội nói riêng.

Thứ hai, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội trong hai năm gần đây đạt nhịp độ tăng trưởng tuy cao hơn so với mức bình quân chung của cả nước, nhưng thấp hơn giai đoạn trước. Theo số liệu của Cục Thống kê thành phố Hà Nội, năm 2013 tốc độ tăng trưởng GRDP của thành phố Hà Nội đạt mức 8,25% trong đó, ngành công nghiêp-xây dựng đạt tốc độ tăng trưởng 7,57%. Chỉ số sản xuất công nghiệp cả năm 2013 tăng 4,5%. Năm 2014, mặc dù đã có những dấu hiệu khởi sắc nhưng mức độ phục hồi của nền kinh tế trong nước nói chung, Hà Nội nói riêng vẫn còn chậm. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 6 tháng năm 2014 tăng 7,4% so cùng kỳ năm trước. Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp - xây dựng tăng 6,9%; trong 9 tháng đầu năm 2014, các ngành được chú trọng phát triển của thành phố có chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp chỉ tăng bình quân ở mức 4,5% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó, ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại tăng 6,1%, sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính tăng 5,6%; một số ngành vẫn gặp khó khăn trong khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, hàng tồn kho lớn như sản xuất thiết bị điện giảm 7,7%, sản xuất kim loại giảm 13,9%, sản xuất phương tiện vận tải giảm 6,8%...

Thứ ba, các ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT)-hầu hết là ngành chủ đạo tập trung phát triển theo quy   hoạch được đề ra của Hà Nội, đã hình thành và phát triển trên 22 năm ở hầu khắp các ngành sản xuất. Tuy nhiên, sự phát triển này được các chuyên gia đánh giá là mang tính tự phát, manh mún, xuất phát từ nhu cầu sản xuất của từng nhóm doanh nghiệp chứ chưa có định hướng chiến lực tập trung vào một số ngành trọng điểm để phát triển. Đây là thách thức lớn đối với sự phát triển của ngành công nghiệp Hà Nội. Chỉ tính riêng ngành ô tô, xe máy là ngành có điều kiện phát triển công nghiệp hỗ trợ tốt nhất do thị trường lớn, nhưng tỷ trọng doanh thu cũng chỉ chiếm khoảng 26% ngành CNHT thành phố; ngành điện tử- tin học còn thấp hơn chỉ chiếm khoảng 10%. Ngành cơ khí chế tạo là nhóm ngành có nhiều loại sản phẩm nhấtvà nhiều phân nhóm khác nhau như: nhóm ngành điện (gồm cả thiết bị và khí cụ điện), vật tư ngành cơ khí, phụ tùng linh kiện cho ngành cơ khí… nhưng cũng chỉ chiếm 29,16% doanh thu CNHT.

Hiện các DN tham gia vào CNHT chỉ chiếm khoảng 25% tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Theo các chuyên gia thì trình độ công nghệ của đa số doanh nghiệp CNHT Hà Nội đang phổ biến ở mức trung bình. Chỉ có khoảng 20% số doanh nghiệp (chủ yếu là doanh nghiệp FDI, có trình độ công nghệ tiên tiến tương đương các nước trong khu vực. Khu vực đầu tư nước ngoài có công nghệ gia công tiên tiến hơn, tuy nhiên năng lực hầu như cũng chỉ đủ phục vụ cho nhu cầu nội bộ của công ty mẹ. Sản phẩm CNHT hiện chủ yếu phục vụ cho tiêu thụ nội địa (đáp ứng khoảng 10% nhu cầu), xuất khẩu còn gặp nhiều khó khăn do chưa có kênh tiếp cận thị trường hoặc chưa đảm bảo quy mô công suất sản xuất kinh tế.

Thứ tư, năng lực cạnh tranh của các cơ sở sản xuất còn thấp, thiếu sự phối kết hợp, phân giao chuyên môn hóa giữa các cơ sở sản xuất hỗ trợ và hầu như thiếu hẳn sự phối hợp, phân giao sản xuất, liên kết giữa nhà sản xuất chính với các nhà thầu phụ, giữa các nhà thầu phụ với nhau, giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp nội địa. Đáng chú ý, việc thiếu nguồn nhân lực có trình độ cao đang khiến cho ngành công nghiệp này của thành phố gặp nhiều bất lợi trong phát triển.

Mặc dù thành phố ngay từ đầu giai đoạn 2011-2015 đã ban hành chương trình số 77/CTr-UBND về phát triển sản phẩm công nghiệp hỗ trợ nhưng thực tế, nhiều chuyên gia và nhà quản lý chỉ ra rằng, Hà Nội cần tăng cường đẩy mạnh hơn nữa việc cải thiện các yếu tố liên quan đến chất lượng tăng trưởng của ngành, qua đó đẩy mạnh hơn nữa quá trình phát triển bền vững Thủ đô, đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước với vai trò là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của cả nước.

Đối với hầu hết các nền kinh tế, trong một số giai đoạn nhất định, ngành công nghiệp có vai trò hết sức to lớn. Khác với nông nghiệp, ngành công nghiệp có lợi thế hơn hẳn về tốc độ tăng trưởng, trình độ mở rộng quy mô. Sự phát triển của công nghiệp thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo nhu cầu tư liệu sinh hoạt cho nhân dân, tăng kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa đất nước. Trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, công nghiệp càng có vị trí quyết định, bởi suy cho cùng, cạnh tranh trên thị trường quốc tế chủ yếu vẫn là cạnh tranh giữa các sản phẩm do ngành công nghiệp chế tạo ra. Công nghiệp tăng trưởng cao sẽ tạo ra tiền đề vật chất đảm bảo nâng cao nhịp độ phát triển của thành phố, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng cao phải gắn liền với cải thiện chất lượng tăng trưởng mới đảm bảo hiệu quả kinh tế cao, duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định và phát triển công nghiệp một cách bền vững, làm động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác cùng phát triển, cải thiện đời sống và sự phát triển của các lĩnh vực xã hội, đảm bảo môi trường và đảm bảo khả năng phát triển bền vững.

Với sự kiện Hà Nội điều chỉnh lại địa giới hành chính, diện tích tăng lên 3,5 lần và dân số tăng gấp 2 lần, bên cạnh vùng trung tâm đô thị hóa cao còn có vùng nông thôn rộng lớn của Hà Tây sáp nhập, đem lại cho Thủ đô vị thế mới với không gian địa chính trị mở rộng. Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế Việt Nam cho rằng, mặc dù ngành công nghiệp của Hà Nội đạt được tốc độ tăng trưởng hơn cả nước, nhưng chất lượng tăng trưởng của ngành là chưa cao, mà nếu không được định hướng, nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành trong thời gian tới, thì sẽ là một lực cản lớn đối với việc duy trì nhịp độ phát triển và vị thế kinh tế-xã hội của Thủ đô trong dài hạn.

Đề tài “Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp của thành phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030” sẽ góp phần làm rõ cơ sở khoa học (gồm lý luận và thực tiễn), tìm ra luận cứ cụ thể về thực trạng chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp của thành phố Hà Nội, từ đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành trong giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030, hướng tới một thủ đô phát triển bền vững.    

 

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Mục tiêu tổng quát của đề tài là làm rõ cơ sở khoa học (gồm lý luận và thực tiễn) để nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp trong giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030, hướng tới một thủ đô phát triển bền vững.

 

3. Đối tư­­ợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 

 

  • Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp của Hà Nội. Chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp phản ánh nội dung bên trong của quá trình tăng trưởng, biểu hiện ở phương tiện, phương thức, mục tiêu và hiệu ứng đối với môi trường chứa đựng tăng trưởng ấy. Chất lượng tăng trưởng cao của ngành công nghiệp là sự tăng trưởng với nhịp độ cao, hiệu quả và bền vững của ngành được thể hiện qua cơ cấu nội bộ ngành phù hợp với trình độ công nghệ, tiềm năng, thế mạnh của ngành; năng suất nhân tố tổng hợp, năng suất lao động, năng suất vốn, tỷ lệ giá trị gia tăng trong giá trị sản phẩm cao; có khả năng tiết kiệm năng lượng, sản xuất có tính cạnh tranh cao; không ngừng nâng cao vị trí của các phân ngành công nghiệp trong chuỗi giá trị toàn cầu; chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp sẽ là ở mức cao khi đóng góp của quá trình tăng trưởng của ngành góp phần tích cực mang đến những tác động lan toả đến sự phát triển của những ngành kinh tế khác, những lĩnh vực xã hội của Thành phố và có khả năng bảo vệ môi trường, duy trì nhịp độ tăng trưởng trong dài hạn.

 

  • Phạm vi nghiên cứu:

+ Về thời gian, tập trung vào giai đoạn gần đây, nhất là từ sau khi sáp nhập địa giới (2011-nay), là thời kỳ Thủ đô hội nhập sâu và CNH-HĐH với tốc độ cao, để tiếp tục duy trì vai trò của ngành công nghiệp tới tăng trưởng và phát triển của thủ đô Hà Nội. Trên cơ sở đó, gợi ý những định hướng phát triển và giải pháp phát triển nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp của thủ đô, tăng cường khả năng phát triển bền vững của kinh tế thành phố trong giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030. 

+ Về không gian, bao gồm cả địa bàn Hà Nội.

 

 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài  

  • Ø Hệ thống hóa cơ sở lý luận về chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp ở cấp địa phương, đưa ra bộ tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp của thành phố Hà Nội.
  • Ø Đánh giá thực trạng, những nhân tố ảnh hưởng, những mặt được, những mặt còn hạn chế và nguyên nhân về chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp của thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2011 đến nay.
  • Ø Đề xuất định hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp của thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn 2030 theo hướng đẩy mạnh nhịp độ tăng trưởng và tính bền vững của tăng trưởng kinh tế thành phố Hà Nội.

 

5. Nội dung chính của đề tài

  • Nội dung I: Cơ sở khoa học và thực tiễn về tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp
  • Nội dung II: Đánh giá thực trạng tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp Hà Nội giai đoạn 2011-nay
  • Nội dung III: Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành CN Hà Nội thời kì 2016- 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

 

Đề tài Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp thành phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030 là một đề tài mới cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Đề tài là một trong những hướng nghiên cứu trọng điểm của Học viện và sẽ được thực hiện trong hai năm 2015 và 2016. Chúng tôi mong nhận được sự chỉ dẫn của các cơ quan chức năng, sự hợp tác của các nhà khoa học và đồng nghiệp để công trình nghiên cứu đạt được kết quả như dự kiến./.

 

Nhóm nghiên cứu

 

 

Nguồn: Phòng Khoa học Hợp tác & Khoa Kế hoạch phát triển